Tỉnh đoàn hưng yên
Thành phố hưng yên
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thương binh - liệt sỹ

Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thương binh - liệt sỹ

Hồ Chí Minh luôn dành tình yêu thương, quan tâm, chăm sóc, theo nghĩa khoan dung văn hóa, cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người có hoàn cảnh khó khăn, thương tật, trong đó có thương binh, gia đình liệt sỹ.

Quan niệm Hồ Chí Minh về sự cần thiết hoạch định và thực hiện công tác thương binh, liệt sỹ

Trong cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho đất nước của nhân dân ta, có biết bao nhiêu chiến sỹ cộng sản, quần chúng cách mạng, yêu nước đã ngã xuống, hy sinh nơi chiến trường khốc liệt để xây nên giang sơn gấm vóc hôm nay, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Máu đào của các liệt sỹ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của liệt sỹ đã làm cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sỹ…”[1]. Chiến tranh kết thúc, trong số những người con trở về từ trận tuyến cũng có không ít người đã để lại một phần máu thịt của mình, các anh trở về với những thương tật trên cơ thể vì lý tưởng cách mạng cao đẹp.

cong tac thuong binh

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành những tình cảm đặc biệt cho 
những người có công với cách mạng

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến thương binh, liệt sỹ là những người đã cống hiến xương máu, hy sinh tính mạng để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân. Dù bận trăm công nghìn việc nhưng Người vẫn luôn dành thời gian để quan tâm, thăm hỏi, động viên các đồng chí thương binh, liệt sỹ cùng gia đình họ. Nội dung tư tưởng, những tình cảm thiêng liêng Hồ Chí Minh dành cho thương binh, liệt sỹ được thể hiện một cách nhất quán, xuyên suốt, cụ thể, thiết thực trong rất nhiều bài nói, bài viết, hành động và việc làm của Người.

Ngay từ những ngày đầu nước nhà mới giành được độc lập, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm đến công tác chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ. Với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, lãnh đạo, nhân dân ta đã dành tình thương yêu cho những người, những gia đình có công với Tổ quốc và cách mạng.

Theo Hồ Chí Minh, công tác thương binh liệt sỹ là một hình thức xây dựng tượng đài kỷ niệm trong lòng dân chúng, các thế hệ kế tiếp, ghi nhớ công ơn, chiến công của những con người ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc và cuộc sống yên bình của nhân dân. Đây là tư tưởng nhất quán, thể hiện rất rõ trong các bức thư Hồ Chí Minh viết nhân dịp ngày 27-7. Trong thư đầu tiên, Người nhấn mạnh đến mục đích cao cả này với những lời thống thiết: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe dọa. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sỹ mà nay một số thành ra thương binh.

Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt.

Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy” [2].

Từ những rung động sâu sắc tận đáy lòng, thương tiếc và trân trọng, Hồ Chí Minh đã đi đến một quan niệm khái quát về thương binh, liệt sỹ. Đó là những người “quyết hy sinh tính mệnh họ, để giữ gìn tính mệnh của đồng bào. Họ hy sinh gia đình và tài sản họ, để bảo vệ gia đình và tài sản của đồng bào.

Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống.

Họ là những chiến sỹ anh dũng của ta.

Trong đó, có người đã bỏ lại một phần thân thể ở trước mặt trận. Có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là những thương binh, đó là tử sỹ” [3].

Hồ Chí Minh đã đánh giá chính xác ý nghĩa và giá trị của sự hy sinh vì độc lập, tự do của các chiến sỹ. Người đã nâng công tác thương binh, liệt sỹ lên ngang tầm một hoạt động văn hóa, như là một sự kế tục, ở quy mô toàn xã hội, truyền thống nhân nghĩa “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc Việt Nam.

Đặc trưng nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về thương binh, liệt sỹ là chủ nghĩa nhân văn mà cốt lõi là lòng thương người. Ở Hồ Chí Minh, lòng thương người phát triển với mức độ cao; nó đồng nghĩa với việc thực hiện các quyền cơ bản về sự phát triển toàn diện của con người. Lòng thương người của Hồ Chí Minh thể hiện ở sự đồng cảm với những người thân trong gia đình bị mất con, em vì hy sinh cho Tổ quốc, song rất đỗi tự hào vì được “Tổ quốc ghi công”.

Lòng thương người gắn với lòng kính yêu thương binh, liệt sỹ quyện chặt vào nhau, nâng cao ý thức giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng của đất nước, dân tộc. Không phải sự mất mát nào cũng làm chúng ta kính trọng, học tập, dù có thương cảm, mủi lòng, ngoại trừ hy sinh cho đất nước, làm cho cuộc sống hiện tại và tương lai mãi mãi tồn tại và phát triển. Đó là những cái chết làm nên sự sống và trở thành bất tử. Tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về thương binh, liệt sỹ không chỉ là sự tiếc thương, ngậm ngùi, đau xót và tự hào, mà còn gợi lên tinh thần bất khuất, làm hồi sinh sức sống mãnh liệt của cả dân tộc, của những người hy sinh, những người cống hiến một phần cơ thể của mình cho đất nước, cách mạng và gia đình thương binh, liệt sỹ. Ở Hồ Chí Minh, chúng ta nhận thấy rằng, Người đã làm cho sự hy sinh, mất mát của liệt sỹ, thương binh, gia đình, dân tộc càng thêm cao đẹp hơn bằng cách gắn sự tổn thất này vào ý thức của những người còn sống về nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với những người đã hy sinh, những mất mát của những người đã chiến đấu và gia đình họ. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã làm cho những điều vinh quang càng vinh quang, đáng tự hào hơn, trách nhiệm của những người còn sống, gia đình và nhân dân càng nặng nề hơn.        

Nội dung công tác thương binh, liệt sỹ theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, giúp đỡ thương binh không mang ý nghĩa nhất thời, về lâu dài, cơ bản và quyết định là tạo mọi điều kiện cho họ có khả năng hòa nhập tự nhiên, thích nghi với đời sống cộng đồng, có công cụ để hoạt động phù hợp với khả năng từng đối tượng, bảo đảm cuộc sống cho họ và gia đình.

Ngoài những việc làm nghĩa cử của bản thân, đối với thương binh, liệt sỹ, Người nhấn mạnh: Để phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” trở thành một phong trào có sức lan tỏa sâu rộng trong thực tiễn, có hiệu quả và thiết thực, toàn Đảng, toàn dân phải vinh danh, ghi nhận công lao to lớn của thương binh, liệt sỹ và làm tốt hơn nữa công tác “Đền ơn đáp nghĩa”. Nhiều tổ chức Hội như “Hội mẹ chiến sỹ”, “Hội ủng hộ thương binh” được thành lập; nhiều phong trào như “Trần Quốc Toản”, “Đón thương binh về làng” được phát động rộng rãi, góp phần cùng Đảng, Nhà nước chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, thắt chặt thêm tình quân dân như “cá với nước”.

Trong Di chúc thiêng liêng của Người, Bác Hồ của chúng ta đã căn dặn biết bao điều hệ trọng về công tác thương binh - liệt sỹ:

“Đầu tiên là công việc đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, than niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào ta phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.

Đối với các liệt sỹ, thì mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.

Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sỹ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền cùng Hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét” [4].

Công tác thương binh, liệt sỹ là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, công tác thương binh, liệt sỹ là một loại chính sách xã hội đặc biệt, thu hút sự tham gia của mọi đối tượng dân cư, mọi ngành, mọi giới; không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là tình cảm, lương tri sống ở đời và làm người, nói lên bản chất ưu việt của chế độ xã hội, nét đẹp văn hóa ứng xử, đạo lý sống của người Việt Nam. Trong các lực lượng xã hội tham gia làm công tác thương binh, liệt sỹ, Đảng Công sản phải là người khởi xướng, lãnh đạo thông qua hệ thống các chủ trương, đường lối và chính sách.

Bản thân Hồ Chí Minh còn là người tích cực đi đầu thực hiện công tác thương binh, liệt sỹ. Ngay từ tháng 11/1946, Người đã ra thông báo về việc nhận con các liệt sỹ làm con nuôi, hàng năm đều có thư thăm hỏi động viên, khuyến khích thương binh, gia đình liệt sỹ. Trong vòng 22 năm (1947 - 1969), Hồ Chí Minh đã 14 lần gửi quà, tiền nhân Ngày Thương binh - Liệt sỹ. Quà tặng thường là những đồ dùng thiết yếu (quần áo, khăn mặt, vải, thuốc men, chăn...) và tiết kiệm tiền lương gửi vào quỹ thương binh toàn quốc. Việc làm của Người vừa thiết thực, vừa tạo thành một phong trào xã hội rộng lớn với nhiều hình thức phong phú và vô cùng cảm động đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia.

Hằng năm, đều đặn cứ vào dịp tháng 7, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại gửi thư thăm hỏi, động viên thương binh, gia đình liệt sỹ, một mặt khẳng định công lao, đóng góp của họ, một mặt động viên họ: “Các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương, cũng như các đồng chí đã từng là chiến sỹ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận”, để mỗi “thương binh tàn nhưng không phế” [5].

Trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khi sang thăm nước Pháp, Người đã viếng thăm và đặt vòng hoa tại Đài tưởng niệm chiến sỹ tử trận tại Biarit, mộ chiến sỹ vô danh tại Khải Hoàn Môn, mộ liệt sỹ bị phát xít Đức bắn trên đồi Valêriêng. Người nói “Trông thấy nghĩa sỹ Pháp vì độc lập và tự do mà bị người Đức tàn sát, lại nhớ đến nghĩa sỹ Việt cũng vì độc lập, tự do mà cũng bị người khác tàn sát, khiến cho người ta thêm nỗi cảm động ngậm ngùi” [6]. Tình yêu thương, nhân ái của vị lãnh tụ kính yêu đã không bị một danh giới địa lý hay chính trị nào giới hạn mà trở thành yếu tố của lý tưởng chung: Bình đẳng và bác ái giữa hai dân tộc Việt  - Pháp. Từ đó, Người khẳng định: Dù ở đâu, bất cứ nơi nào: Độc lập - tự do đều do xương máu của các nghĩa sỹ và sự đoàn kết của toàn dân mà xây nên. Vậy nên, những người chân chính yêu chuộng độc lập, tự do của nước mình, thì cũng phải kính trọng độc lập, tự do của dân tộc khác.

Tình yêu thương của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thương binh, liệt sỹ còn được thể hiện ở những nghĩa cử cao đẹp, bình dị và rất đỗi tự nhiên trong đời sống thường ngày. Người thường trích một tháng lương, dùng tiền do các Việt Kiều biếu, dùng những bộ quần áo, khăn tay, các vật dụng khác để làm quà tặng cho anh em thương binh tại các trại điều dưỡng.

Ghi nhớ công lao của các liệt sỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên đặt vòng hoa viếng tại Đài liệt sỹ Hà Nội vào các dịp lễ, Tết: “Ngày mai là năm mới.... Trong lúc cả nước vui mừng, thì mọi người đều thương tiếc các liệt sỹ đã hi sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc. Bác thay mặt nhân dân, Chính phủ và bộ đội kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn bất diệt của các liệt sỹ”. Không chỉ dừng lại ở đó, Người còn ký và ban hành các sắc lệnh về chế độ: “Hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sỹ”; thành lập sở, ty thương binh, cựu binh ở khu và tỉnh, đặt ra Bảng vàng danh dự, Bằng gia đình vẻ vang và truy trặng, phong tặng các danh hiệu anh hùng, huân, huy chương cho các liệt sỹ, thương binh.

Một số biện pháp cụ thể thực hiện công tác thương binh, liệt sỹ

Trong mọi hoàn cảnh, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh: Giúp thương binh lâu dài, chứ không phải chỉ giúp trong một thời gian. Không phải giúp bằng cách góp gạo nuôi thương binh, những biện pháp hỗ trợ trước mắt mà bằng cả một hệ thống giải pháp căn cơ, lâu dài, trên mọi phương diện, từ việc làm đến thu nhập, từ việc học đến đào tạo nghề, từ giúp đỡ, hỗ trợ của tập thể đến phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi cá nhân… Người gợi ý một số cách làm cụ thể:

- Mỗi xã trích một phần ruộng công, nếu không có ruộng công thì mượn ruộng của đồng bào hằng tâm hằng sản, nếu không mượn được ruộng thì chính quyền, đoàn thể và đồng bào trong xã chung sức phát vỡ một số đất mới để giúp thương binh.

- Chính quyền, đoàn thể và đồng bào trong xã sẽ tổ chức cày cấy, chăm nom, gặt hái những ruộng đất ấy. Hoa lợi sẽ để nuôi thương binh.

- Tùy theo số ruộng đất trích được, mượn được hoặc khai khẩn được, mà đón được nhiều hoặc ít thương binh về xã. Anh em thương binh sẽ tùy sức mà làm những công việc nhẹ, như học may vá, đan lát, hớt tóc hoặc giúp việc phòng giấy, giúp việc bình dân học vụ trong làng...

Như thế thì đồng bào mỗi xã đã được thỏa mãn lòng ước ao báo đáp anh em thương binh; mà anh em thương binh thì được yên ổn về vật chất và vui vẻ về tinh thần và vẫn có dịp tham gia sự hoạt động ích lợi cho xã hội.

Những quan điểm cơ bản và tấm gương của Hồ Chí Minh trong công tác thương binh, liệt sỹ đã được Đảng và Chính phủ ta vận dụng, kế thừa, phát huy và cụ thể hóa thành nhiều chương trình, chính sách giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sỹ hiện nay. Trong suốt 70 năm qua, phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” và lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh,  Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến các đối tượng thương binh, thân nhân gia đình liệt sỹ. Các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa” ngày càng đi vào chiều sâu và xã hội hóa cao. Các phong trào xây dựng nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa, Quỹ đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm sóc con liệt sỹ mồ côi, đi tìm hài cốt đồng đội, tu sửa, nâng cấp các nghĩa trang, đài tưởng niệm liệt sỹ... ngày càng thu hút sự tham gia của toàn xã hội trong phạm vi cả nước, đều bắt nguồn từ bản chất tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh./.

PGS, TS. Phạm Ngọc Anh

Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng

Theo http://laodongxahoi.net

Thu Hiền (st)

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tr 401

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tr 204

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tr 579

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 15, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tr 616

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tr 584

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tr 306

BÀI VIẾT LIÊN QUAN