Hưng Yên là vùng đất địa linh nhân kiệt giàu truyền thống cách mạng, là quê hương của nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo xuất sắc của Đảng. Tô Hiệu là một trong số những nhà cách mạng nổi tiếng, một chiến sĩ cộng sản tiên phong mẫu mực, kiên cường bất khuất.
HIẾN DÂNG TUỔI TRẺ CHO CÁCH MẠNG
Tô Hiệu sinh ra ở làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang. Bây giờ không ai biết được ngày sinh, chỉ nhớ ông sinh năm 1912. Tô Hiệu sinh trưởng trong một gia đình nhà nho yêu nước. Cụ nội là Tô Ngọc Nũi, đốc học Nam Định, đức độ đã bỏ chốn quan trường về làng dạy học. Ông ngoại Tô Hiệu là tướng quân Ngô Quang Huy, một danh tướng đã cùng Nguyễn Thiện Thuật đánh Pháp tại vùng Bãi Sậy. Có lẽ vì thế mà lòng yêu nước đã thôi thúc ông dấn thân làm cách mạng chống thực dân Pháp từ lúc tuổi đời còn rất trẻ. Mới 14 tuổi là học sinh khi còn học ở tỉnh Hải Dương, ông đã tham gia phong trào bãi khoá để tang cụ Phan Chu Trinh, vì thế mà bị đuổi học. Tô Hiệu được anh cả Tô Tu đưa ra Hà Nội tiếp tục con đường học vấn. Ở Hà Nội, Tô Hiệu lại tích cực tham gia các phong trào đấu tranh yêu nước. Năm 1929, ông vào Sài Gòn với người anh trai ruột của mình là nhà cách mạng Tô Chấn tiếp tục các hoạt động chống thực dân Pháp. Năm 1930, ông bị địch bắt kết án 4 năm tù đày đi Côn Đảo cùng bị giam giữ với các nhà cách mạng Ngô Gia Tự, Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng… Tại nơi địa ngục trần gian Côn Đảo, Tô Hiệu đã thể hiện khí phách can trường. Đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù không khuất phục được chàng trai trẻ yêu nước 18 tuổi xuân. Tại đây Tô Hiệu được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương. Bốn năm tù đày là bốn năm Tô Hiệu kiên cường đấu tranh, ra sức học tập về lý luận cách mạng. Năm 1934, mãn hạn tù, ông bị địch đưa về quản thúc tại địa phương. Tuy vậy ông vẫn không từ bỏ con đường đấu tranh. Bằng mọi hoạt động hợp pháp, Tô Hiệu qua mắt bọn địch tập hợp lực lượng, bồi dưỡng hạt nhân, xây dựng phong trào cách mạng ngay tại quê hương ông và vùng phụ cận. Ông vận động, chọn lựa đưa người tốt vào bộ máy chính quyền địch, để làm lợi cho dân, vận động mọi người góp công góp của để xây dựng trường học cho con em. Trường “Kiêm Bị Xuân Cầu” đã ra đời từ đó, sau cách mạng tháng 8.1945 ngôi trường được mang tên trường Tô Hiệu. Năm 1936, ông cùng với các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lương Khánh Thiện, Hoàng Văn Nọn khôi phục lại Xứ uỷ Bắc kỳ, ông được bầu vào Thường vụ Xứ uỷ. Đầu năm 1938, Tô Hiệu được cử làm Bí thư liên khu B gồm các tỉnh duyên hải Bắc bộ và Hải Dương, Hưng Yên, trực tiếp làm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng. Từ năm 1938 – 1939, dưới sự lãnh đạo của ông, phong trào cách mạng ở các tỉnh vùng đồng bằng Bắc bộ liên tục phát triển. Đặc biệt tại thành phố Hải Phòng, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân các nhà máy, xí nghiệp lên rất cao. Nhiều hạt nhân nòng cốt của phong trào được ông bồi dưỡng rèn luyện, sau này đã trở thành các cán bộ cách mạng nổi tiếng như chị Hoàng Ngân, Bí thư phụ nữ Việt Nam đầu tiên. Bà Trương Thị Mỹ (còn gọi là cô Viếng) nguyên Phó Chủ tịch Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam kể lại lời căn dặn của Tô Hiệu khi bà được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương “Từ hôm nay Viếng đã trở thành đảng viên cộng sản, đã trở thành đồng chí. Viếng hãy mãi mãi xứng đáng với Đảng với cách mạng”. Tô Hiệu cũng là người trực tiếp giác ngộ kết nạp đồng chí Nguyễn Thanh Bình, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư. Cuối năm 1939, Tô Hiệu bị địch bắt và bị bọn thực dân xử tù đày đi nhà tù Sơn La. Tại nhà tù Sơn La, một lần nữa người cộng sản trẻ tuổi Tô Hiệu đã thể hiện ý chí kiên cường dũng cảm trước các thủ đoạn tra tấn của địch, tham gia tích cực vào các cuộc đấu tranh chống bọn cai ngục. Ông được tín nhiệm bầu làm Bí thư Chi bộ nhà tù Sơn La. Trên cương vị người bí thư, Tô Hiệu đã thể hiện bản lĩnh người lãnh đạo, người chỉ huy. Ông tham gia viết báo, soạn tài liệu huấn luyện cán bộ. Ông đã biến nhà tù của địch thành trường học đào tạo được nhiều cán bộ ưu tú cho Đảng. Bọn cai ngục ở đây đã thấy Tô Hiệu chính là mối nguy hiểm tiềm tàng nên chúng đã giam riêng ông. Nhưng bằng mọi cách Tô Hiệu vẫn âm thầm lặng lẽ chỉ đạo sát sao phong trào đấu tranh của những người tù cộng sản. Do chế độ nhà tù hà khắc của thực dân Pháp cùng với bệnh lao phổi nặng, ngày mồng 7 tháng 3 năm 1944 Tô Hiệu đã trút hơi thở cuối cùng khi ông mới 32 tuổi. Lời căn dặn cuối cùng của ông với đồng đội “Các đồng chí hãy cố gắng lên, đừng phút nào quên nhiệm vụ của mình”.
MỘT TÌNH YÊU BẤT TỬ
Năm 1934, sau khi mãn hạn tù ở Côn Đảo trở về và bị quản thúc tại địa phương, nhưng ông vẫn tìm mọi cách hoạt động xây dựng phong trào cách mạng. Lúc này Tô Hiệu đang bị bệnh lao hành hạ. Cụ Ngô Thị Lý là thân mẫu của Tô Hiệu hết lòng thuốc thang chạy chữa cho con. Một điều cụ rất quan tâm là muốn lấy vợ cho Tô Hiệu, cụ dỗ dành thuyết phục nhưng Tô Hiệu nhất mực từ chối. Ông nói với mẹ rằng “vì bị bệnh lao, lại hoạt động cách mạng vào tù ra tội nên không muốn làm ai phải khổ vì mình”. Mặc cho con trai khước từ, thân mẫu của Tô Hiệu vẫn nhờ người mai mối. Cô Tỳ vốn là người cùng làng Xuân Cầu, một cô gái hàng xén ở chợ Sắt – Hải Phòng đã được chọn. Biết chuyện, Tô Hiệu đã chủ động viết cho cô Tỳ 1 lá thư từ chối, khuyên cô không nên yêu mình và đi lấy chồng để có hạnh phúc lâu dài. Nhận được thư, cô Tỳ rất đau khổ, nhưng nhân duyên như trời định, cô Tỳ càng cảm phục, kính trọng và yêu Tô Hiệu hơn – một tình yêu đơn phương kéo dài theo năm tháng. Cuối năm 1939, Tô Hiệu bị địch bắt lần thứ hai và giam ở đề lao Hải Phòng. Biết được tin, cô Tỳ đã đến tận đề lao thăm Tô Hiệu và rất đau khổ, thương cảm. Đầu năm 1940, ông bị kết án và đày đi Sơn La. Tình yêu đơn phương đẹp như truyện cổ tích của cô hàng xén Hải Phòng dành cho Tô Hiệu được chính ông kể cho nhà văn Hoàng Công Khanh - bạn tù với ông trong nhà tù Sơn La. Ông bảo: May mà địch chuyển ông về Hoả Lò – Hà Nội và đày đi Sơn La, chứ nếu cứ ở Hải Phòng thì cô Tỳ sẽ còn đến và càng thêm đau khổ. Nghe tin Tô Hiệu hy sinh, cô Tỳ vô cùng đau khổ. Sau 1945, cô tham gia hoạt động cách mạng, là cán bộ thương nghiệp, suốt đời ở vậy không lấy chồng, hương khói thờ phụng Tô Hiệu. Bà đã mất khi tròn 90 tuổi. Con cháu Tô Hiệu luôn ghi nhớ và thường kể cho tôi nghe về một tình yêu cao thượng và đầy kính trọng của bà dành cho người thân gia đình mình. Ông Tô Điển (Tô Quang Đẩu) nguyên Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội, là em họ và cùng bị tù với Tô Hiệu ở Sơn La cho biết : Năm 1957, ông lấy được một số ảnh của Tô Hiệu lưu tại sở mật thám của Pháp, ông đã gửi tặng cho bà một tấm. Nhận được ảnh Tô Hiệu, ngắm nhìn người xưa, bà đã rất xúc động và làm một bài thơ đẫm nước mắt:
…"Cùng nhau xa cách đã bao đông
Nhìn ảnh càng thêm chạnh nỗi lòng”
Những phẩm chất cao đẹp, sự kiên trung bất khuất của Tô Hiệu cho sự nghiệp cách mạng đã khiến một người con gái ngưỡng mộ và dành cho ông một tình yêu bất tử như thế.
SÁNG MÃI TINH THẦN TÔ HIỆU
Một năm sau khi Tô Hiệu hy sinh, đồng chí Trường Chinh nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đã viết bài “Gương hy sinh - Tinh thần Tô Hiệu” trên báo Cờ Giải Phóng của Đảng, ca ngợi đức độ tinh thần chiến đấu kiên cường bất khuất của ông. 54 năm sau, ngày 7 tháng 3 năm 1998, Ban liên lạc nhà tù Sơn La, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên và Sơn La đã biên soạn và xuất bản cuốn sách “Tinh thần Tô Hiệu”. Tên bài báo của đồng chí Trường Chinh đã được đặt tên cho cuốn sách này. Viết lời tựa cho cuốn sách, đồng chí Đỗ Mười nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đã viết …"Đồng chí Tô Hiệu là một cán bộ xuất sắc của Đảng. Cuộc đời đồng chí tuy ngắn ngủi nhưng những cống hiến của đồng chí cho dân tộc, cho cách mạng thật là to lớn”.